GỢI NHỚ TÁM MƯƠI NĂM: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH 2/9

Đăng lúc: 01-08-2025 10:24 Sáng - Đã xem: 212 lượt xem In bài viết

Quê tôi, cái làng quê nhỏ bé ấy, có bãi cát trải dài giáp biển Đông, có dãy núi Xương Rồng phía tây và đường cái quan chạy dọc. Nơi đó, con đường rẽ lên miền thượng gặp nhau, tạo thành ngã ba Thạch Trụ lịch sử. Dòng sông Thoa lững lờ trôi, cánh đồng bát ngát nhấp nhô đến núi Vàng, núi Cửa.

Ông ngoại họ Huỳnh từng nói: “Đất này hiểm, có mộ ông Lớn[1], dinh ông Cần[2]. Làm ăn thì được, tuy ở không yên…” Quả thật, lời ông đoán không sai. Năm ấy, quân Đồng minh và Nhật đánh nhau, ngã ba Thạch Trụ lúc nào cũng có lính Nhật lê gươm, vác súng đi tuần. Trên trời, máy bay Mỹ, máy bay Nhật quần nhau như chim ác là, chim cắt. Trẻ con, bà già chui vào gầm bàn trốn, chỉ có mấy anh nông dân chống cuốc đứng xem reo hò. Cả tuần, ngày nào nắng lên là ngày đó có không chiến.

Cha tôi kể lại: “Kỳ này ông xã Thiệt dữ quá. Ba chiếc máy bay rơi trúng ngay dải ruộng rộc dọc sông. Giàu quá, mấy trăm mẫu, hễ tàu nào rụng là vô ruộng của ổng, cát bùn đùn lên thành gò… May nhà mình ruộng ít, không bị đám nào“. Qua lời cha, tôi mới biết ông xã Thiệt nhiều ruộng đến mức nào.

Tết năm ấy, các đoàn hát “Sắc bùa” bị bác Cả Nhượng, lý trưởng, cấm đi chúc tết vì “giặc giã đầy trời, tụ tập đông đảo lỡ chuyện gì thì khó“. Hoa vạn thọ sau tết đã tàn, anh Bùi Công Thảng, con bác Cả, đi ngoài tỉnh về, cho biết: “Nhật, Pháp đánh nhau. Lính Pháp bị Nhật bắt giam. Trên Ba Tơ khởi nghĩa rồi. Lệnh ta chuẩn bị“.

Chẳng ai biết chuẩn bị là làm gì, chỉ thấy đàn ông nhà nào cũng phải rèn một thanh gươm dài. Lò rèn phía chợ Mới ngày đêm đỏ lửa, tiếng búa gõ vang. Sân nhà thờ họ Bùi cứ tối đến, thanh niên tập hợp đứng thành hàng, tay cầm gậy tre dài quá đầu người lớn, tập tấn, đỡ, múa loang loáng, chân dậm rầm rầm. Anh đội trưởng tiếng the thé hô vang. Chị Chín Ti Ti, cô út bác Cả, người đẹp nhất làng đứng xem, nói nhỏ: “Anh đó người Bình Định, giỏi võ, mới rước về“.

Lệnh, không rõ từ đâu, mỗi nhà đều sắm một cái mõ bằng tre. Cha tôi làm xong, anh em đem gõ liền bị mắng: “Cái này trẻ con không được nghịch“.

Tháng Bảy, quân khởi nghĩa Ba Tơ tràn về chiếm các xã đường, cho người canh gác ngã ba Thạch Trụ, ga xe lửa. Quân Nhật được tin báo, hùng hổ đi trên chục xe cam nhông từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi vào, liền bị quân khởi nghĩa phục kích, ném lựu đạn bằng đất sét sơn đen, súng nổ đùng đùng. Phía thôn Mỏ Cày, hàng ngàn người tay cầm gươm xông lên vây giặc. Quân ta đông, tiếng mõ tre gõ vang trời nghe như sấm dậy, quân Nhật cuống cuồng leo lên xe chạy về Tư Nghĩa, bỏ lại một xe cam nhông bị đốt cháy.

Tiếng mõ dồn dập vang vang mỗi khi quân Nhật đến, tiếng mõ như sóng trào từ thôn xóm ven biển đến núi Xương Rồng, Chóp Vung, núi Vàng, núi Cửa. Huyện đường về tay cách mạng, cờ đỏ sao vàng rợp trời. Ngày nào cũng như hội, cha tôi cầm gươm đứng trong hàng quân giữa sân đình An Thổ. Lá cờ đỏ sao vàng to được kéo lên cột cao, phất phới bay trong gió.

Đội tự vệ dựng một chòi cao giữa xóm. Anh Quản, người có bằng “Pờ ri me” học cao nhất làng, cùng một tự vệ lên chòi đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập được “Trên” gửi về từ Hà Nội. Tiếng vang vang qua loa thiếc. Đàn ông mặc quần áo dài đầu đội khăn đóng đứng giữa sân, đàn bà đứng lấp ló trong nhà. Mọi người đều trịnh trọng lắng nghe.

Ông ngoại nói: “Tám mươi năm nô lệ, nay được Cụ Hồ Chí Minh giành độc lập“. Tám mươi năm nô lệ! Sao mà dài thế.

Mừng Độc Lập, khắp thôn xóm, nhà nhà treo cờ. Anh Quản, người gầy như ống xe điếu, gọi đội Sắc bùa, cầm đờn cò, trống phách, định hát bài “Sắc bùa” thì bị anh Bốn Thảng, nay là phó Mặt trận, quát: “Hát gì những bài đó. Tập bài Diệt phát xít ngay“. Thế là phải kiếm đàn ghi ta, đàn măng đô lin và đồng ca: “Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng. Tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Việt Nam, Việt Nam… dưới bóng cờ đỏ ánh vàng sao…“.

Việt Nam!

Việt Nam!

Tiếng mõ râm ran dồn dập khắp thôn làng. Cờ đỏ sao vàng rực rỡ treo cao.

Từ ngày ấy, tiếng mõ tre khởi nghĩa và sắc cờ đỏ thắm, ngôi sao vàng rực sáng cứ theo mãi trong tôi suốt cả cuộc đời.

Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cứ đến cuối tháng Tám, các nhà được lệnh treo cờ đỏ sao vàng mới. Ngày Hai tháng Chín đều có mít tinh ở trước đình làng An Thổ. Ông Bảy Cưu, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, người giàu nhất thôn, mặc quân phục ca ki vàng, đi đứng nghiêm trang, đọc diễn văn. Đến những năm năm mươi, giặc Pháp được Mỹ giúp nhiều máy bay, Lễ Độc Lập phải tổ chức vào ban đêm. Đuốc cháy bập bùng soi sáng rừng cờ đỏ sao vàng. Đến năm 1953, Chủ tịch Mặt trận huyện Bùi Công Thảng về dự, đọc diễn văn hùng hồn, kêu gọi nhân dân góp công, góp của cho kháng chiến.

Năm 1954, Pháp thua ở Điện Biên Phủ. Tại Quảng Ngãi, giặc Pháp đổ bộ từ biển lên thôn Hội An, An Thạch hòng tiến chiếm ngã ba Thạch Trụ nhưng bị Bộ đội Trung đoàn 108 phục kích đánh tan tác. Đúng như ông ngoại họ Huỳnh nói, đất này hiểm. Mỏ Cày Nhật chạy, Thạch Trụ Pháp thua.

Tháng 7 năm 1954, hòa bình lập lại trên toàn Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt. Cha mẹ, bà con tiễn tôi lên tàu ra Bắc, hẹn hai năm gặp lại. Cha ngậm ngùi bảo: “Ừ! Tháng bảy sang năm Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà thì về“.

Nhưng quân Pháp đến, kéo theo cả đám phản động Ngô Đình Diệm. Chúng lập chính quyền, truy nã, bỏ tù những người kháng chiến cũ. Cha và các ông phải đem gươm, kiếm và cờ đỏ sao vàng giấu trên nóc nhà thờ. Một vùng làng mạc ven sông Thoa bị quay rào dây thép gai thành ấp chiến lược. Ông Bùi Công Thảng cùng các đồng chí lên phía tây núi Chóp Vung, núi Xương Rồng xây căn cứ kháng chiến. Quê hương chìm trong máu lửa, dân chúng bị buộc treo cờ ba que nhưng hình ảnh cờ đỏ sao vàng vẫn sống mãi trong lòng.

Đoàn học sinh miền Nam ra Bắc chúng tôi được ở thôn Dương Liễu, gần Hà Nội. Ước vọng lớn nhất là được thấy Bác Hồ. Ngày 30 tháng 8 năm 1955, thầy hiệu trưởng dẫn bốn mươi em học sinh xuất sắc về Hà Nội dự Lễ Độc Lập.

Đêm ngày Một tháng Chín, tôi được ngủ trong nhà một người bạn trên phố Hàng Khay, nhìn ra hồ Gươm. Tháp Rùa có ngôi sao năm cánh trên đỉnh thắp sáng. Hà Nội lung linh như mơ, như mộng. Tôi thức suốt đêm mong trời mau sáng.

Sáng ngày Hai tháng Chín, từ năm giờ sáng, cả đoàn đã tập hợp cùng học sinh Hà Nội tiến về quảng trường Ba Đình. Ba Đình mênh mông, mưa thu lất phất. Rừng người, hàng ngũ ngay thẳng đứng thành khối. Học sinh chúng tôi được đứng trước, nhìn về lễ đài. Đúng bảy giờ sáng, những tia nắng ban mai bừng lên cũng là lúc Bác Hồ và các vị lãnh đạo bước ra. Tiếng hô “Nghiêm, chào cờ”. Quốc kỳ to đỏ rực từ từ kéo lên. Cả rừng người hát Quốc ca hùng tráng.

Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc...”

Tiếng hát, tiếng nhạc dội vào không gian Thủ đô linh thiêng, vang mãi đến tận quê nhà nơi ngã ba Thạch Trụ, làng An Thổ thân yêu. Bác Hồ đọc diễn văn. Cả Ba Đình yên lặng như nghe từng hơi thở. Tiếng Người vang vang vọng đến cả nước, đến miền Nam, đến những chiến sĩ đồng bào đang sống dưới ách kìm kẹp.

Nhìn lên lễ đài, Bác Hồ đứng đó vẫy tay chào. Ôi, những đứa trẻ miền Nam, sinh ra ở tận những xóm làng xa xôi của Tổ quốc, được về đây nhìn thấy Người, nghe tiếng Người nói. Suốt cả cuộc đời trong tim tôi ghi nhớ mãi không bao giờ quên giây phút thiêng liêng này.

Năm 1969, đúng ngày Lễ Độc Lập của dân tộc, Bác ra đi. Mưa thu nặng hạt, tôi cùng hàng vạn nhân dân Hà Nội trên quảng trường Ba Đình đứng khóc. Lá cờ đỏ sao vàng rũ xuống như thấm đậm nước mắt của triệu người. Đau đớn đến tận cùng! Gian sơn còn chia cắt.

Ba lô trên vai, súng trên tay và Di chúc của Người trong tim, tôi cùng đoàn quân vào chiến trường miền Trung. Trước khi lên đường, chúng tôi về lại Ba Đình, đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, thề thực hiện cho bằng được mong ước của Người: GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngọn cờ cách mạng nửa đỏ nửa xanh được anh hùng Bùi Quang Thận cắm trên đỉnh Dinh Độc Lập. Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Cờ đỏ sao vàng tung bay từ đỉnh Hà Giang đến mũi Cà Mau. Triệu trái tim cùng đập một nhịp. Ôi! Biết bao vui sướng. Đất trời Việt Nam bừng sáng. Mong ước cháy bỏng mấy chục năm chinh chiến đã thành.

Ngày 2 tháng 9 năm ấy, tôi về ngã ba Thạch Trụ. Cờ đỏ sao vàng rực rỡ treo từng nhà. Trên đỉnh núi Xương Rồng, lá cờ to nhất tung bay. Đoàn người đi dự Lễ Độc lập tay cầm cờ, nét mặt hân hoan. Bất chợt nghe loa phát điệu nhạc “Sắc bùa” thân quen, tôi nhớ đến những người đã làm nên Cách mạng Tháng Tám. Ông Bùi Công Thảng đã hy sinh trên chiến hào, ông Bảy Cưu thà chết trong tù không chào cờ địch, anh Nguyễn Quản đã ngã xuống trên chiến khu. Chỉ còn Văn Tâm, Lý Tùy người làm chức to tỉnh Quảng Ngãi, người lo việc lớn trên Lâm Đồng. Và câu ca:

Sắc bùa là sắc bùa hè

Cho mau tới Tết để nghe sắc bùa

Sắc bùa là sắc bùa ơi

Cho mau tới Tết để chơi sắc bùa

Còn mãi. Tết, đây là Tết Độc Lập ngày Hai tháng Chín. Từ ngã ba Thạch Trụ này đến quảng trường Ba Đình Hà Nội bao xa?

Hôm nay, tám mươi năm sau Khởi nghĩa, tôi lại về làng cũ. Xóm thôn đã là phố thị, nhà chen nhà mái ngói đỏ tươi. Đường rộng, xe nối nhau chạy liên hồi. Sông núi cứ như nở hoa. Dòng Thoa êm đềm chảy về biển Mỹ A, núi Xương Rồng xanh thẳm tận tầng mây.

Tám mươi năm trước, ông cha cầm mõ tre giành chính quyền để thoát nô lệ, đói nghèo. Tám mươi năm sau, con cháu không còn lo đói, rách, cùng nhau học hỏi, nắm lấy tri thức nhân loại, làm giàu cho quê hương.

Đất này lành“. Nếu ông ngoại họ Huỳnh sống lại, ông sẽ nói như vậy.

Ôi! Cách mạng tháng Tám.

BÙI CÔNG ĐỊNH

Hội viên Chi hội VHNT Trường Sơn, Đà Nẵng

 


[1] Mộ ông lớn- tương truyền ngài họ Bùi đỗ đạt cao, quan to. Vua giao việc lên cao nguyên Lâm viên lập Buôn Ma Thuột làm thủ phủ, bị sốt rét chết trẻ, mất nửa năm chuyển linh cửu bằng voi và thuyền về quê. Mộ to chiếm mười mẫu ruộng.

[2] Dinh ông Cần: dinh thự của ông Nguyễn Thân, Cần chánh đại học sĩ thời nhà Nguyễn. Công trình xây bằng đá ong đỏ tươi.