CỰU TNXP BẮC NINH ĐỒNG THUẬN, ĐÓNG GÓP NHIỀU Ý KIẾN XÁC ĐÁNG VÀO DỰ THẢO VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIV

Đăng lúc: 06-11-2025 12:58 Chiều - Đã xem: 129 lượt xem In bài viết

Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng Hội Cựu TNXP tỉnh Bắc Ninh ngày 17 tháng 10 năm 2025, thảo luận, đóng góp vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

Hội Cựu TNXP TNXP tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành việc tổng hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, hội viên vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đây là hoạt động ý nghĩa, thể hiện tâm huyết và trách nhiệm của cựu TNXP trong công cuộc xây dựng đất nước. Việc lấy ý kiến được triển khai theo Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 43-KH/HCTNXPVN ngày 04/9/2025 của Trung ương Hội Cựu TNXP Việt Nam.

Tình hình triển khai và đồng thuận cao

Công tác chỉ đạo, quán triệt việc lấy ý kiến được thực hiện nghiêm túc. Hội Cựu TNXP tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 25/KH-HCTNXP ngày 12/9/2025, gửi kèm các văn kiện dự thảo tới ủy viên Ban Chấp hành để nghiên cứu. Ngày 17/10/2025, Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh hội đã được tổ chức để các đại biểu tham gia đóng góp ý kiến.

Hầu hết cán bộ, hội viên cựu TNXP tham gia góp ý đều đồng tình, nhất trí cao với nội dung và bố cục các dự thảo văn kiện. Các ý kiến chung nhận định rằng, các văn kiện được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, có tính tổng kết và khái quát cao, đánh giá đầy đủ, sâu sắc trên từng lĩnh vực. Điều này thể hiện được tư duy, tầm nhìn chiến lược, cùng quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong nhiệm kỳ tới, đồng thời phản ánh được ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đây là kết tinh từ thực tiễn phong phú và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

Cán bộ, hội viên cũng đánh giá cao sự đổi mới trong cách tiếp cận và cấu trúc của dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIV. Báo cáo không chỉ tổng kết một nhiệm kỳ mà mở rộng phạm vi tổng kết gắn với nhiều nhiệm kỳ, kế thừa và phát huy thành quả trong toàn bộ tiến trình đổi mới. Đặc biệt, báo cáo xác định rõ phương hướng, mục tiêu phát triển không chỉ trong khuôn khổ Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm mà còn với tầm nhìn đến năm 2045 – kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Một điểm mới quan trọng khác là nhiều nội dung trước đây chỉ được đề cập khái quát, nay đã phát triển thành chuyên đề riêng với hàm lượng chính sách cụ thể, rõ nét hơn. Điển hình là nội dung về hoàn thiện đồng bộ thể chế và thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, được xác định là trọng tâm trong định hướng chiến lược.

Những góp ý cụ thể, sâu sắc từ thực tiễn

Bên cạnh sự đồng thuận, các ý kiến góp ý cũng đi sâu vào từng nội dung cụ thể, mang tính xây dựng cao đối với các dự thảo văn kiện:

Đối với Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng

  • Về chủ đề Đại hội: Hầu hết các ý kiến bày tỏ sự nhất trí cao với chủ đề Đại hội đã xác định. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị nghiên cứu thêm, để xác định chủ đề đại hội phù hợp với Mục tiêu phát triển (tại mục 3, phần II, trang 21) xác định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và năm 2045. Một số ý kiến khác đề nghị bổ sung thêm yếu tố “phát triển con người Việt Nam toàn diện” để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong tình hình mới.
  • Về đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và cơ đồ của đất nước sau 40 năm đổi mới: Phần lớn các ý kiến đều đồng ý theo dự thảo, nhưng có một số ý kiến đề nghị bổ sung nhận định tình hình trong nước ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Các ý kiến góp ý cũng cho rằng dự thảo Báo cáo chính trị cần đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn những tồn tại, hạn chế, những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, nhất là trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
  • Về kết quả đạt được: Các ý kiến cho rằng tại mục (1) đã báo cáo cụ thể kết quả đạt được của các chỉ tiêu về phát triển kinh tế nhưng còn thiếu một số chỉ tiêu về tốc độ tăng năng suất lao động, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các chỉ tiêu về môi trường. Tại mục (2) chưa báo cáo kết quả cụ thể các chỉ tiêu về phát triển xã hội, cụ thể như: Chỉ số phát triển con người (HDI), tỷ lệ lao động nông nghiệp, tỷ lệ lao động có bằng cấp, tỷ lệ hộ nghèo. Đề nghị xem xét bổ sung để có cơ sở đối chiếu với các mục tiêu đề ra trong giai đoạn 2026 – 2030. Đặc biệt, tại mục 1, phần I (trang 7), một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trên các lĩnh vực” tại khổ cuối của Điểm (3) để làm rõ hơn quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu trên các lĩnh vực.
  • Về hạn chế, yếu kém và nguyên nhân: Có ý kiến đi sâu phân tích làm rõ những mặt yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân. Tại mục 2, phần I (trang 12), một số ý kiến đề nghị bổ sung yếu kém “Tình trạng tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương chưa được giải quyết và khắc phục”. Tại khổ 6, mục 2, phần I (trang 13), một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “tỷ lệ lao động không có việc làm còn cao” vào nội dung về an sinh xã hội.
  • Về bài học kinh nghiệm 40 năm đổi mới: Các ý kiến thảo luận đều nhất trí cao với 05 bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII.
  • Về quan điểm, mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới: Hầu hết các ý kiến nhất trí nội dung dự báo tình hình và 05 quan điểm chỉ đạo. Đa số các ý kiến nhất trí với 05 quan điểm chỉ đạo cần được quán triệt. Một số ý kiến cho rằng trong quan điểm chỉ đạo thứ 3, việc hoàn thiện thể chế, kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một số ý kiến đề nghị Trung ương tiếp tục rà soát, hoàn thiện nội dung mục tiêu, đồng thời làm rõ hơn tính khả thi trong triển khai các mục tiêu và giải pháp đặt ra cho giai đoạn 2026 – 2030.
  • Về cấu trúc và nội dung 13 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2026 – 2030: Hầu hết các ý kiến đều nhất trí cấu trúc và các nội dung định hướng. Một số ý kiến đề nghị bổ sung các nội dung “Hoàn thiện cơ chế chính sách” hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và nội dung về chuyển đổi số. Tại phần III – Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước (trang 22), đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm nội dung về tổ chức thi hành pháp luật và “Xây dựng và hoàn thiện thể chế khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thể chế liên kết vùng, phát triển đô thị thông minh”. Tại phần IV – Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính (trang 24), có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Phát triển công nghiệp nội địa có sức cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu” vào cuối câu tại dòng thứ 3, khổ thứ hai, trang 27. Tại phần V – Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam (trang 27), một số ý kiến đề nghị Trung ương quan tâm, nghiên cứu bổ sung nội dung phát triển công nghiệp văn hóa. Tại phần VI – Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới (trang 29), một số ý kiến cho rằng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là cần thiết, đồng thời định hướng đào tạo nghề phải đảm bảo phù hợp với đầu ra kinh tế. Tại phần VIII – Quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống nhân dân (trang 32), các ý kiến đồng ý và tán thành nội dung nhưng đề nghị làm rõ hơn ý nghĩa nội hàm của cụm từ “an ninh con người”. Tại phần XII – Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc (trang 38), có ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức. Tại ý 2 (trang 40), một số ý kiến đề nghị sửa câu về “Chăm lo xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới” để phù hợp hơn. Tại phần XIII – Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (trang 41), có ý kiến đề xuất bổ sung nội dung đánh giá kết quả, tác động và những vấn đề đặt ra sau sáp nhập và thực hiện chính quyền hai cấp. Tại phần XIV – Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng (trang 43), một số ý kiến góp ý đề nghị điều chỉnh cấu trúc bằng cách gộp chung nội dung các điểm 1, 2 và 3 thành một điểm thống nhất với tiêu đề mới: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức”.
  • Về Chương trình hành động: Hầu hết ý kiến đánh giá cao chương trình hành động. Các ý kiến cơ bản nhất trí với 3 mục đích, yêu cầu; 12 nhiệm vụ chủ yếu; 6 nhiệm vụ trọng tâm; 3 đột phá chiến lược và 5 nội dung nhiệm vụ tổ chức thực hiện Chương trình. Tại mục 14, phần II – Nhiệm vụ chủ yếu (trang 71), một số ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung đột phá về tổ chức thi hành pháp luật cùng với đột phá về thể chế.

Đối với dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam

Hầu hết các ý kiến đều nhất trí với nội dung, kết cấu dự thảo Báo cáo. Tại mục 2.2, phần II – Sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng qua 40 năm đổi mới (trang 203), một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung việc phát triển lý luận về phát triển kinh tế tư nhân. Tại mục 1, phần III. Những thành tựu và hạn chế trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội Việt Nam (trang 234), đa số ý kiến đề nghị thay cụm từ “chúng ta” bằng cụm từ “Việt Nam”. Tại mục 2, phần III. Những thành tựu và hạn chế trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội Việt Nam (trang 240-246), một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung đánh giá thành tựu, hạn chế về văn hóa. Một số ý kiến cũng đề nghị trong dự thảo làm rõ hơn mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; bổ sung nội dung về văn hóa trong kỷ nguyên số. Một số ý kiến đề nghị bổ sung số liệu so sánh về đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Một số ý kiến cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến các thành tựu về bảo đảm an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo.

Đối với dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XIII

Dự thảo Báo cáo đã có những nhận định, đánh giá toàn diện, đầy đủ, phản ánh đúng và sát thực tiễn. Tuy nhiên, để bảo đảm thêm tính toàn diện, đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm hạn chế như: Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tinh thần tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; biểu hiện thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong công tác; việc phát triển đảng ở một số nơi còn chạy theo chỉ tiêu số lượng, chưa chú trọng chất lượng; công tác đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên. Đồng thời, đề nghị bổ sung thêm nội dung về nguyên nhân (cả khách quan và chủ quan) của những hạn chế, vướng mắc, bất cập. Tại phần I. Kết quả thi hành điều lệ Đảng, mục 2. Kết quả triển khai thi hành Điều lệ Đảng, tiểu mục 2.6 – về tổ chức cơ sở đảng (Chương V), nội dung hạn chế vướng mắc, bất cập (trang 335), một số ý kiến cho rằng việc đánh giá nhận định về quy định tổ chức cơ sở đảng chưa sát với thực tế là chính xác và đề nghị cần có những quy định cụ thể hơn.

Những ý kiến đóng góp tâm huyết, trách nhiệm này không chỉ thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các thế hệ cựu TNXP đối với vận mệnh đất nước, mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện các văn kiện, đưa ra những quyết sách đúng đắn tại Đại hội XIV, vì mục tiêu xây dựng một Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, văn minh và hạnh phúc.

Trịnh Thanh Giang

Chủ tịch Tỉnh hội Bắc Ninh