“Phục vụ quên mình – Anh dũng xung phong – Lập công vẻ vang” – những lời tuyên thệ ấy đã trở thành truyền thống bất diệt của lực lượng TNXP Giải phóng miền Nam, khắc ghi dấu ấn sâu sắc vào lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Nhân kỷ niệm 60 năm ngày Truyền thống Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam (20/4/1965 – 20/4/2025), chúng ta cùng nhìn lại chặng đường đầy gian khổ, hy sinh nhưng cũng vô cùng rực rỡ của những lớp thanh niên tuổi đôi mươi. Trong số các đơn vị tiêu biểu, C12-65 Bình Giã là minh chứng sống động cho tinh thần bất khuất, vừa trực tiếp chiến đấu vừa đảm nhiệm công tác hậu cần, tải thương và vận chuyển vũ khí, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Sự ra đời và phát triển của Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam
Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam chính thức được thành lập trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt, khi Mỹ đẩy mạnh chiến lược “Chiến tranh Đặc biệt” và bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam. Việc hình thành một lực lượng thanh niên chuyên biệt, có tổ chức chặt chẽ, là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo thông suốt hậu cần chiến lược và hỗ trợ các đơn vị chủ lực.
Ngày 20/4/1965, đơn vị TNXP Giải phóng miền Nam đầu tiên mang phiên hiệu C100 được thành lập tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, với 108 cán bộ, đội viên. Đồng chí Trần Lê Dũng (Sáu Dũng), Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng, giữ vai trò Chính trị viên; đồng chí Nguyễn Đức Toàn (Tư Dũng), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, làm Tổng đội trưởng. Đến cuối năm 1965, Trung ương Cục chỉ đạo thành lập Đảng ủy Tổng đội trực thuộc, do đồng chí Sáu Dũng làm Bí thư, củng cố vai trò lãnh đạo chính trị và chiến lược cho lực lượng mới này.
Sau C100, mười một đơn vị TNXP khác lần lượt ra đời tại các địa phương, khẳng định sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng:
- Ngày 2/9/1965, Đội “Hiệp Hòa anh dũng” của Long An.
- Ngày 23/11/1965, Đội “Hoàng Lệ Kha” của Tây Ninh.
- Ngày 1/12/1965, Đội 112 “Phú Lợi căm thù” của Bình Dương.
- Ngày 12/12/1965, Đội 1265 “Bình Giã chiến thắng” của Biên Hòa.
- Ngày 20/12/1965, Đội “Nguyễn Văn Tư” của Bến Tre.
- Đầu năm 1966, Mỹ Tho thành lập đội 2163 “Ấp Bắc”.
- Ngày 23/9/1966, Cà Mau thành lập Đội 239 “Nguyễn Việt Khái”.
- Ngày 3/2/1967, Đội “Tây Đô quyết thắng” của Cần Thơ.
- Tháng 11/1967, Đội 1167 “Đông Xuân quyết thắng” của Trà Vinh.
- Ngày 20/4/1968, C204 Ấp Bắc 2 của Mỹ Tho.
- Ngày 26/3/1970, C263 Hiệp Hòa anh dũng của Long An
Sự ra đời liên tiếp này cho thấy sức hấp dẫn của lý tưởng giải phóng và vai trò ngày càng mở rộng của thanh niên trong cuộc chiến.
Khác biệt cốt lõi so với TNXP miền Bắc (thường được huy động có thời hạn và chủ yếu bảo đảm giao thông tuyến đường Trường Sơn), TNXP Giải phóng miền Nam tập trung không thời hạn, hoạt động khắp các chiến trường hiểm nguy, từ xã phường đến tiền tuyến. Nhiệm vụ của họ vô cùng đa dạng và nguy hiểm, bao gồm vận chuyển vũ khí, lương thực qua các tuyến hành lang bị địch kiểm soát gắt gao, tải thương, đào hầm hào, và đặc biệt là trực tiếp tham gia chiến đấu bên cạnh các đơn vị Quân Giải phóng để bảo vệ các tuyến tiếp vận.
Từ năm 1966 đến 1968, trước tính chất và quy mô chiến tranh ngày càng ác liệt, với sự ra đời của các sư đoàn chủ lực như Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Tổng đội TNXP Giải phóng miền Nam đã thành lập 3 Liên đội TNXP mang phiên hiệu tương ứng (Liên đội 5, 7, 9). Đây là quyết định chiến lược nhằm tạo ra các đơn vị hỗ trợ cơ động, có khả năng tác chiến, phục vụ trực tiếp các sư đoàn trong những trận đánh lớn, cam go. Các Liên đội này đóng vai trò là “cánh tay nối dài” không thể thiếu, giúp các sư đoàn chủ lực duy trì sức chiến đấu liên tục.
Đến giai đoạn 1969-1972, TNXP Giải phóng miền Nam cùng các Đoàn Hậu cần quân đội gánh vác việc vận chuyển hàng chiến lược và bảo vệ các tuyến hành lang trọng điểm như Tây Ninh – Dầu Tiếng (Liên đội 9) và Dầu Tiếng – Chơn Thành – Bến Cát – Củ Chi (Liên đội 7). Để tăng cường hỏa lực, Tổng đội còn thành lập Tiểu đoàn tăng cường D601 (600 người) làm nhiệm vụ tại chiến trường Campuchia. Tiểu đoàn này đã trực tiếp chiến đấu và lập công, bắn rơi 2 trực thăng, bắn cháy 4 xe bọc thép, trước khi chuyển thành D579 và sáp nhập vào lực lượng Công an vũ trang.
Từ năm 1972 đến cuối năm 1973, lực lượng TNXP được giao nhiệm vụ quan trọng là tiếp đón hơn 3.500 cán bộ, chiến sĩ được địch trao trả theo Hiệp định Paris tại Tây Ninh. Sau đó, toàn lực lượng đã tham gia trọn vẹn Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và có mặt trong đội hình tiếp quản Sài Gòn ngày 30/4/1975, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình.
Với tinh thần “Năm xung phong” – xung phong chiến đấu, xung phong công tác, xung phong lao động, xung phong rèn luyện, xung phong giữ gìn bí mật – TNXP Giải phóng miền Nam đã thể hiện sự anh dũng, kiên cường cùng bộ đội trên các chiến trường.
Liên đội 9 là một trong những đơn vị lập nhiều chiến công nhất, đã sát cánh cùng Sư đoàn 9 Quân Giải phóng trong 5 năm (1965-1969), phục vụ 401 trận đánh. Sự phục vụ này đòi hỏi sự bền bỉ phi thường trong điều kiện thiếu thốn: vượt suối, băng rừng, tránh bom B-52 để đảm bảo vũ khí và lương thực đến tiền tuyến. Đặc biệt, trong trận Gian-xơn-Xi-ty tháng 2/1967, Liên đội 9 đã giúp Sư đoàn 9 bẻ gãy trận càn quy mô lớn nhất của Mỹ, góp phần làm nên thắng lợi quyết định. Trong 9 năm hoạt động, Liên đội đã vận chuyển hàng chục tấn vũ khí, 10.000 tấn gạo (tương đương với hàng triệu lượt gùi, vác) và tải thương 6.415 cáng. Mỗi cáng thương là một mạng sống được cứu, thể hiện sự hy sinh quên mình của các đội viên TNXP giữa lằn ranh sinh tử. Liên đội đã được Sư đoàn 9 tặng cờ 14 chữ vàng: “Đoàn kết khiêm tốn, phục vụ chí tình, sống anh dũng, chết vinh quang”.
Quá trình phục vụ, chiến đấu, lao động và rèn luyện đã xây dựng nên truyền thống cốt lõi của lực lượng, đúc kết trong khẩu hiệu: PHỤC VỤ QUÊN MÌNH, ANH DŨNG XUNG PHONG, LẬP CÔNG VẺ VANG.
Với những thành tích xuất sắc, Lực lượng TNXP Giải phóng miền Nam đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2009). Vinh dự này là sự ghi nhận to lớn đối với những cống hiến thầm lặng và sự hy sinh của hàng vạn thanh niên. Tập thể và cá nhân TNXP cũng được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý khác, bao gồm 01 Huân chương Thành đồng hạng Nhất (danh hiệu cao quý dành cho tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc), 03 Huân chương Thành đồng hạng Ba, 01 Huân chương Quân công hạng Ba cùng hàng trăm Huân chương, Huy chương các loại, và danh hiệu Anh hùng LLVTND cho TNXP Đoàn Thị Liên[1] năm 2000.
C12-65 bình giã – biểu tượng hào khí miền Đông Nam Bộ
Đơn vị C12-65 Bình Giã được thành lập ngày 12/12/1965 tại suối Xà Môn, Ấp 3 Kim Long, xã Ngãi Giao (thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước đây). Buổi lễ thành lập diễn ra trong bối cảnh khí thế chiến thắng Bình Giã[2] vẫn còn vang vọng, tạo nên niềm tin sắt đá. Lá cờ truyền thống mang dòng chữ “Bình Giã chiến thắng” đã trở thành biểu tượng cho quyết tâm đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ngay từ những ngày đầu.
Với quân số gần 200 người, được bổ sung từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ (đặc biệt là TNXP Bình Thuận), C12-65 sát cánh cùng Liên đội 5, Sư đoàn 5 bộ đội Giải phóng. Đơn vị đảm nhận vai trò kép: vừa là chiến sĩ, vừa là hậu cần viên. Sự kết hợp này là bắt buộc trên chiến trường miền Nam, nơi tuyến hậu cần luôn bị địch đánh phá và phục kích, yêu cầu mỗi đội viên phải sẵn sàng biến từ người tải đạn thành chiến đấu viên bất cứ lúc nào để bảo vệ hàng hóa và đồng đội.
Trong gần một thập kỷ chiến đấu, C12-65 đã tham gia hơn 40 trận đánh lớn nhỏ. Đơn vị không chỉ vận chuyển, cáng thương mà còn trực tiếp cầm súng, giữ mũi tấn công, khẳng định tinh thần chiến đấu trực diện, kiên cường.
- Tại trận Võ Đắc – Võ Su:Phối hợp cùng bộ đội địa phương Đức Linh, đơn vị tiêu diệt Đại đội Bảo An 738 và hai đại đội Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 43 Sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn), thu giữ 76 khẩu súng các loại, minh chứng cho khả năng tác chiến độc lập.
- Đêm 18 rạng 19/6/1967:Đơn vị phục vụ trận đánh Kim Long II, phối hợp tiêu diệt Tiểu đoàn bộ binh cơ giới địch, phá hủy 78 xe cơ giới và loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ. Trận đánh này là điển hình cho sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa thanh niên xung phong và bộ đội chủ lực trong việc bẻ gãy các mũi tấn công cơ giới của đối phương.
- Tháng 10/1967:Cùng Sư đoàn 5 hành quân chuẩn bị cho Chiến dịch Phước Hòa, Bà Rá – Bình Long – Phước Long 3 và 4, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho lực lượng ta trước các cuộc càn quét lớn.
- Đêm 18/5/1969:Tham gia trận Halayna (ngã 3 Cây Gõ, xã Lộc An, huyện Long Thành), tiêu diệt 2/3 quân số Tiểu đoàn Thái Lan – lực lượng tinh nhuệ được Mỹ hậu thuẫn. Tiếp đó, đêm 17 rạng 18/9, đơn vị tiếp tục đánh tiêu diệt hoàn toàn 01 tiểu đoàn Thái Lan tại sân bay Bình Sơn và chiếm được sân bay, thể hiện tinh thần dũng cảm và khả năng vượt trội trong cận chiến.
C12-65 còn được mệnh danh là “mạch máu giao thông” của chiến tuyến. Các đội viên ngày đêm san lấp hố bom, mở đường, khắc phục giao thông, đảm bảo đoàn quân, vũ khí và lương thực kịp thời tiếp viện tiền tuyến dưới làn bom đạn. Trong hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực, họ vẫn giữ vững ý chí: “Còn một giọt sức, là còn góp cho Tổ quốc”. Những đóng góp thầm lặng nhưng vĩ đại ấy đã đưa C12-65 Bình Giã trở thành biểu tượng sáng ngời của “ý chí thép, tinh thần quên mình, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc”.
Sau ngày đất nước thống nhất, đơn vị C12-65 ghi nhận có 48 đội viên hy sinh (30 nam, 18 nữ) – hầu hết ở tuổi đời còn rất trẻ. Trong đó, 46 liệt sĩ đã được quy tập, tuy nhiên vẫn còn 2 đồng đội chưa tìm thấy phần mộ. Sự hy sinh này là một phần máu xương không thể thiếu đã làm nên ngày toàn thắng, non sông liền một dải.
Để ghi nhận công lao, hai nữ TNXP Phạm Thị Mãnh[3] và Phạm Thị Yến[4] đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Câu chuyện về họ, những nữ chiến sĩ trẻ tuổi kiên cường, đã trở thành biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ miền Đông. Tập thể C12-65 cũng được trao tặng Huân chương Thành đồng hạng Nhất, Huân chương Quân công, minh chứng cho những chiến công to lớn và sự phục vụ tận tụy.
Ngày nay, tinh thần “Phục vụ quên mình – Anh dũng xung phong – Lập công vẻ vang” vẫn vẹn nguyên giá trị. Thế hệ trẻ hôm nay kế thừa truyền thống ấy một cách sáng tạo, không chỉ qua việc tri ân quá khứ mà còn thông qua các hành động cụ thể. Tinh thần xung phong được thể hiện rõ nét trong các chiến dịch lớn như Mùa Hè Xanh, Tiếp sức mùa thi, tình nguyện tại các vùng sâu, vùng xa, hay tham gia công tác phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Đó là cách để “sống cùng lịch sử”, biến hào khí truyền thống thành nguồn cảm hứng hành động, cống hiến sức trẻ và trí tuệ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời bình, xây dựng đất nước phồn vinh như lời hứa của thế hệ đi trước.
Bài: Phạm Thị Hạnh, Văn phòng Tỉnh hội Đồng Nai
Ảnh: Hội Cựu TNXP Việt Nam
Một số hình ảnh khác

[1] Đoàn Thị Liên (1944 – 1966), quê tại Ấp 1, xã Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương trước đây; là Trung đội trưởng TNXP với những khẩu hiệu nổi tiếng: “Chiến trường còn thương binh thì TNXP chưa rời trận địa” và “Thà hy sinh chứ không để thương binh bị thương lần thứ hai”.
[2] Trận Bình Giã, diễn ra cuối tháng 12 năm 1964 tại làng Bình Giã (tỉnh Phước Tuy, cách Sài Gòn 67 km), là trận đánh chính trong Chiến dịch Bình Giã giữa Quân Giải phóng miền Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Dù có ưu thế về quân số, trang bị và được cố vấn Mỹ hỗ trợ, Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn thất bại nặng. Đây được xem là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, mở đầu giai đoạn mới của chiến tranh cách mạng miền Nam. Trung đoàn Q761 – trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân Giải phóng – được mang tên “Đoàn Bình Giã” để ghi nhận chiến công.
[3] Phạm Thị Mãnh (1947 – 1969) quê ở Bà Rịa – Vũng Tàu là TNXP thuộc C12-65 từ tháng 12/1965. Dũng cảm dẫn đầu tiểu đội bò dưới làn đạn của địch để tiếp đạn, cõng thương binh, tử sĩ. tham gia phục vụ tại các trận đánh nổi tiếng như sân bay Biên Hòa và kho xăng Nhà Bè. Hy sinh ngày 20/6/1969, khi bảo vệ thương binh.
[4] Phạm Thị Yến (1947 – 1968) TNXP C12-65 từ 1965, tham gia phục vụ tải đạn và tải thương cho 12 trận đánh lớn tại các chiến trường ác liệt như Võ Đắc, Võ Su, Thành Tuy Hạ, sân bay Biên Hòa, và Kho xăng Nhà Bè. Luôn thể hiện sự dũng cảm phi thường, lấy thân mình che chắn thương binh trong lửa đạn. Ngày 10/10/1968, trong trận đánh tại suối Vàng – đồi Hắc Dịch, Tám Yến tự nguyện ở lại chặn đánh địch (biệt kích Úc) để bảo vệ tiểu đội tải thương; đã bắn gục 3 tên biệt kích Úc trước khi hy sinh ở tuổi 20.









































































