Truyền thống 60 năm anh hùng của Đội TNXP đặc biệt K53

Đăng lúc: 28-07-2025 10:08 Sáng - Đã xem: 267 lượt xem In bài viết

Ngày 13/7/2025 đánh dấu 60 năm thành lập Đội TNXP K53 – một đơn vị đặc biệt với những đóng góp to lớn và hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thành lập trong bối cảnh cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ leo thang, K53 không chỉ là đội TNXP đầu tiên và duy nhất của Đoàn Thanh niên được cử vào chiến trường miền Nam, mà còn ghi dấu ấn bằng những chiến công hiển hách, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Bối cảnh ra đời và nhiệm vụ đặc biệt

Sau thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt ở miền Nam[1], đế quốc Mỹ lấy cớ sự kiện Vịnh Bắc Bộ để leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân; đưa hơn 20 vạn quân cùng đồng minh vào miền Nam, khởi đầu chiến lược Chiến tranh cục bộ[2].

Trong bối cảnh đó, theo yêu cầu của phân khu Trị-Thiên-Huế và sự thống nhất của Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã quyết định thành lập Đội TNXP K53. Đây là một đơn vị đặc biệt với 343 đoàn viên thanh niên được tuyển chọn từ các tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), Nam Định, Ninh Bình, cùng với 3 cán bộ người Quảng Trị – Thừa Thiên Huế và 1 bác sĩ người Huế.

Ngày 13/7/1965, Đội K53 tập trung và huấn luyện tại Trường Đoàn (Cầu Giấy), trải qua một tháng rèn luyện nghiêm ngặt về xạ kích và hành quân mang vác như quân đội. Ngày 16/8/1965, Đội làm lễ xuất quân, chính thức ra chiến trường với nhiệm vụ làm công tác thanh vận tại khu giải phóng miền Tây Trị – Thiên. Đây là điểm độc đáo của K53, khi các đội viên được trang bị như cán bộ dân chính, sẵn sàng cho những thử thách cam go phía trước.

Những chặng đường hành quân và cống hiến thầm lặng

Hành trình của K53 là chuỗi ngày dài của sự kiên cường và nỗ lực phi thường. Sau hai tháng hành quân bộ, Đội tập trung tại A Lưới (Thừa Thiên) chờ nhận nhiệm vụ. Khi chiến trường ác liệt, vùng giải phóng Trị – Thiên bị thu hẹp, Đội nhận lệnh hành quân ngược ra Bắc sông Bến Hải, rồi rẽ xuống xã Vĩnh Ô.

Từ đây, các đội viên một lần nữa vượt sông Bến Hải để mở con đường mới song song với đường mòn Hồ Chí Minh, nối liền từ Nam Bến Hải đến Nam sông Ba Lòng (Quảng Trị). Trên tuyến đường này, K53 đã thiết lập 8 trạm vận chuyển vũ khí, hàng hóa, thuốc men vào Nam và cáng thương binh ra Bắc. Hai tiểu đội Ninh Bình và một tiểu đội Hà Tây được giao nhiệm vụ lái đò và bảo vệ bến sông Cà Ná, nằm giữa cứ điểm 241 và đồn giặc Đầu Mầu. Hàng đêm, hàng chục tấn hàng hóa và nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ đã vượt sông trên những chiếc đò độc mộc chỉ chở được 6-7 người, giữa dòng nước xiết và đáy sông đầy đá ngầm.

Ban đầu, mỗi đội viên chỉ gùi được 20-24kg/chuyến, nhưng sau đó, họ đã nỗ lực nâng lên 40-46kg/chuyến, thậm chí nhiều người đạt năng suất 26-28 ngày công/tháng. Nhờ những đóng góp vượt trội, hàng chục cá nhân đã được phong tặng danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng” và “Dũng sĩ vận tải” cấp ưu tú.

Đến cuối năm 1966, đầu 1967, trước nhu cầu vận chuyển lớn, các đội viên K53 đã đề xuất với lãnh đạo việc phối hợp với đoàn vận tải Bắc Sơn (chủ yếu là chiến sĩ dân tộc Tà Ôi, Vân Kiều) và tiểu đoàn 8 của Quân khu 4. Sự kết hợp này đã hình thành tuyến đường dài Bắc Sơn, nối dài từ Nam Bến Hải đến Bắc Hải Vân. Đặc biệt, sự phối hợp giữa K53 và cán bộ, du kích địa phương đã cho ra đời một con đò lớn có thể chở cả một trung đội qua sông, tồn tại cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973.

K53 đóng vai trò nòng cốt trong công tác vận tải và giao liên trên các tuyến đường mới do Quân khu Trị – Thiên – Huế mở rộng, kết nối với đường dây 559 và các nhánh đường ngang xuống đồng bằng để chi viện cho bộ đội địa phương.

Vinh quang và hy sinh trên chiến trường

Cuối năm 1967, với thành tích xuất sắc, Đội K53 đã cử 2 đại biểu dự Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua Quân khu. Đội được báo cáo tiến trình, suy tôn là lá cờ đầu ngành vận tải Quân khu và vinh dự nhận Huân chương Chiến công hạng Nhất cho Đội và C3 Hà Tây. Đại đội trưởng Nguyễn Nam Hải và chiến sĩ chèo đò Đỗ Quốc Phong – hai đại biểu tiêu biểu của Đội – đều nhận bằng khen và danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng”.

Trong Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, K53 tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng khi một trung đội vận tải và hỗ trợ chiến đấu của Đội, do đồng chí Trần Sơn (Ứng Hòa – Hà Tây) phụ trách, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Huế từ ngày 22 tháng Chạp đến 18 tháng Giêng năm 1968.

Không chỉ thực hiện nhiệm vụ vận tải và giao liên, các đội viên TNXP K53 còn trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ đường dây và lập nhiều chiến công chống Mỹ, ngụy. Tháng 4/1968, K53 đã tiêu diệt một đại đội Mỹ trên dốc Bồng Bông. Trung đội phó Trịnh Đình Chu (Yên Khánh – Ninh Bình) anh dũng hạ nòng 12,7 ly diệt 13 tên địch, khi hết đạn đã đập hỏng súng và dùng AK chiến đấu đến cùng và hy sinh. Đồng chí Hoàng Văn Hợp – Lê Thống đã dùng súng thu hút hỏa lực máy bay địch, hy sinh để đồng đội kịp rút vào rừng. Đồng chí Lê Huân dùng súng bộ binh hạ trực thăng địch. Trung đội trưởng Nguyễn Tiến Bách và Tiểu đội trưởng Nguyễn Danh Nhiễm hy sinh khi chiến đấu với biệt kích VNCH, bảo vệ đường dây và diệt 3 tên địch. Hình ảnh anh nuôi Nguyễn Văn Còn lo lắng nồi cơm bị cháy, sợ anh em bị đói ngay trước khi hy sinh, đã trở thành biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội.

K53 thực sự là một đội TNXP đặc biệt với những chiến công đặc biệt, nhưng cũng phải chịu những mất mát vô cùng to lớn. Trong suốt quá trình hoạt động, đã có 111 đội viên hy sinh, 167 đội viên bị thương, và nhiều người khác bị sức ép, nhiễm chất độc da cam.

Vinh danh và phát huy truyền thống

Ghi nhận những cống hiến và hy sinh to lớn, tháng 2/2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký quyết định phong tặng Đội TNXP K53 danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Sau ngày đất nước thống nhất, các đội viên K53 trở về với đời thường. Nhiều người đã phấn đấu trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo, và một số trở thành sĩ quan cao cấp trong quân đội. Đội K53 sớm thành lập Ban Liên lạc và được Ban Bí thư Trung ương Đoàn công nhận từ năm 1992. Khi Hội Cựu TNXP ra đời, các đồng chí đều tích cực tham gia hoạt động Hội. Đồng chí Võ Phan Diễn và Đỗ Quốc Phong (người viết bài này) được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội, rồi Ủy viên Đoàn Chủ tịch, và đồng chí Đỗ Quốc Phong còn giữ trách nhiệm Chủ tịch Hội Cựu TNXP Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2022.

Các cựu TNXP K53 đã đóng góp công sức to lớn để lực lượng TNXP Thủ đô đón nhận danh hiệu Anh hùng, và Hội Cựu TNXP Hà Nội vừa nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất vào năm 2021.

Tác giả bài viết.

Với 60 năm truyền thống vẻ vang, 50 năm tham gia giải phóng Huế, và 15 năm đón nhận danh hiệu Anh hùng, Đội TNXP K53 xứng đáng là một đơn vị đặc biệt với những thành tích và chiến công đặc biệt, mãi là niềm tự hào của Lực lượng TNXP Việt Nam.

Đỗ Quốc Phong

Trưởng Ban Liên lạc K53 Anh hùng, nguyên Ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội Cựu TNXP Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Cựu TNXP Hà Nội


[1] Chiến tranh đặc biệt là chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam (1961-1965), là một phần của học thuyết “phản ứng linh hoạt”. Mục tiêu chính là đối phó các phong trào đòi độc lập mang màu sắc cộng sản mà không dẫn đến chiến tranh tổng lực. Chiến lược này được triển khai qua Kế hoạch Staley-Taylor, với ba biện pháp chính: Tăng cường Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH): Nâng cao sức mạnh vũ khí, trang bị, và tăng cường cố vấn Mỹ để trực tiếp chỉ huy, biến QLVNCH thành xương sống của cuộc chiến; “Bình định” nông thôn và lập “ấp chiến lược”: Tập trung dân cư để kiểm soát, cắt đứt sự liên hệ giữa Quân Giải phóng và nhân dân, nhằm cô lập Việt Cộng; Ngăn chặn biên giới và kiểm soát ven biển: Cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc. Tuy nhiên, chiến lược này đã thất bại. QLVNCH chịu tổn thất nặng nề trong các trận Ấp Bắc (1963) và Bình Giã (1964). Các “ấp chiến lược” không đạt được mục tiêu, và chính quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn với nhiều cuộc đảo chính.

[2] Chiến tranh cục bộ là chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam (1965-1968), đánh dấu giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến. Nó ra đời sau thất bại của Chiến tranh đặc biệt, khi chính quyền Sài Gòn suy yếu và quân đội Sài Gòn chịu tổn thất nặng nề. Mục tiêu chính của Chiến tranh cục bộ là tận dụng ưu thế về hỏa lực, công nghệ và quân số Mỹ để “tìm diệt” bộ đội chủ lực Quân Giải phóng miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc và củng cố ảnh hưởng ở miền Nam. Chiến lược này được chia thành ba giai đoạn nhằm nhanh chóng đảo ngược tình thế.  Điểm khác biệt cốt lõi là sự tham chiến trực tiếp và quy mô lớn của quân viễn chinh Mỹ làm lực lượng nòng cốt (535.000 người vào thời điểm cao nhất), cùng với việc Mỹ tập trung “tìm diệt” chủ lực đối phương, “bình định nông thôn”, và phá hoại miền Bắc bằng không quân. Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào Đà Nẵng từ tháng 3/1965 và ngay lập tức mở các cuộc hành quân “tìm diệt” lớn như Vạn Tường và Plei Me/Ia Đrăng. Tuy nhiên, chiến lược này đã bị đánh bại qua các cuộc phản công lớn của quân và dân Việt Nam trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 (với các chiến dịch như Attleboro, Cedar Falls, Junction City). Các nỗ lực “bình định” cũng thất bại, và miền Bắc vẫn kiên cường chống chiến tranh phá hoại, tiếp tục chi viện cho miền Nam. Thất bại này, đặc biệt là sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đã buộc Hoa Kỳ phải từ bỏ tham vọng giành chiến thắng quân sự và chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.