Thơ Bùi Công Minh

Đăng lúc: 06-11-2025 9:35 Sáng - Đã xem: 157 lượt xem In bài viết

Nhà thơ Bùi Công Minh (ảnh trên) vừa hoàn thành trường ca DƯỚI NHỮNG TÁN RỪNG. Tập trường ca có 5 chương: 1. Tên gọi, 2. Hành quân, 3. Dưới tán lá rừng, 4. Những người không vô danh, 5. Trở về, cuối trường ca có phần Vĩ thanh. Nội dung chính của trường ca viết về Tiểu đoàn vận tải 232 Quân Khu V và Anh hùng lực lượng vũ trang Phạm Thị Thao. Ban biên tập  xin gửi đến bạn đọc chương I của trường ca này.

Dưới những tán rừng

CHƯƠNG I: TÊN GỌI

Bắt đầu từ một dòng tên

Thao có thể là tên một dòng sông

Tên xóm vắng dịu hiền miền sơn cước

Một tên làng yên ả cánh cò bay

Có thể là tên một người con gái đang yêu

Là ký ức êm đềm những đêm thao thức

Nhưng ở nơi đây

Những tháng năm này

Chiến tranh đã khoác lên ngôn từ

 màu xanh áo lính

Thao trở thành tên gọi một tiểu đoàn

Tiểu đoàn  Thao…

Phiên hiệu Tiểu đoàn lịch sử còn ghi

“D 232, tiểu đoàn vận tải”

Nhiệm vụ trải dài hành lang vận tải

                                           khu Năm

Một tiểu đoàn như mọi tiểu đoàn

Như mọi tiểu đoàn sinh ra trong đạn lửa

Riêng chỉ điều này không giống nơi đâu

Riêng chỉ điều này lịch sử còn nhắc nhớ:

Gương mặt tiểu đoàn là sáu trăm cô gái

Thanh xuân mười tám đôi mươi

Làm nên chiến công vang động đất trời

Quê hương yêu thương, kẻ thù khiếp sợ

Tên tiểu đoàn cũng nhuốm màu

                                           huyền thoại

Như cổ tích đời thường, dân quen gọi

                                           “Lính Bà Thao”.

Đất nước ngày bom đạn gian lao

Triệu người con, người nối người ra trận

Em góp tuổi thanh xuân trong trắng

Như những giọt hồng cầu giữ mạch máu

                                           hành lang

Những giọt hồng cầu nuôi hình hài

                                           chiến dịch

Lặng lẽ dáng em khắp ngả chiến trường.

Có nơi nào trên dải đất quê hương

Không in dấu chân tiểu đoàn huyền thoại

Những Quảng Đà, Quảng Nam,

                                           Quảng Ngãi,

Những Gia Lai, Kon Tum, đường 9

                                           Nam Lào…

Quê hương gọi tên

Đội ngũ em có mặt

Những đôi vai mềm

Những bắp chân ngần trắng

Đã hóa những đôi vai trăm cân

Những đôi chân vạn dặm

Ngang dọc Trường Sơn xuyên những

                                           cánh rừng

Những lối mòn in dấu chân con gái

Như những gót sen hồng

Những dấu chân thon nhỏ thanh thanh

Đạp lên khói lửa chiến tranh

Đạp lên sỏi đá

Vượt những con dốc ngất trời,

 những vực sâu ngộp thở

Những Suối Chín Khúc, dốc Cọp,

                                           dốc Lò Xo,

Rồi Hòn Kẽm Đá Dừng, Đèo Le, Eo Gió

Những ngày nắng nung

Những đêm mưa lũ

Những bước chân từ hoàng hôn dài

                                            đến bình minh

Những bước chân đem chiến thắng

                                           ngày mai gần lại.

Dưới xa kia là tha thiết đồng bằng

Cả quê hương từng ngày trông đợi

Những người mẹ bao đêm không ngủ

Bao đêm dày thao thức những đoàn quân

Mong ngày giải phóng đến gần

Cho triệu đứa con về gặp mẹ.

 

Niềm khao khát

Ngày ấy,

chắc anh không hình dung được đâu

Đừng gọi chúng tôi là những anh hùng

Đừng vội phong chúng tôi là dũng sĩ

Buổi đầu vào trận chiến này

chúng tôi chỉ là một lũ con gái,

                                           khờ dại, thơ ngây

Tuổi đời mười lăm mười sáu

                                           mười tám đôi mươi

thương cha thương mẹ thương em vô cùng

sợ ma không dám một mình trong đêm tối

Chúng tôi cũng tươi tắn con gái đương thì

Cũng bắt đầu như cô Tấm ngày xưa

                                           bước ra từ quả thị

Xúng xính áo dài duyên dáng ngày xuân

Biết rạo rực con tim mỗi sớm bình minh

Biết nao lòng trước hoàng hôn trên

                                           biển rộng

Biết làm thơ tả trăng lên nơi xóm vắng

Những đêm làng vang tiếng thoi đưa

Chúng tôi cũng biết quay tơ dệt vải

Biết làm nên những tấm lụa mỹ miều.

Bỗng một ngày lặng lẽ

Khai gian thêm tuổi

Xin mẹ xin cha lên đường

Theo tiếng gọi thiêng liêng

Theo nhịp đập trái tim

Mang nặng thù nhà nợ nước

Theo bước các chị các anh

Tạm rời xa bờ tre mảnh ruộng

Tạm rời xa trang vở học trò

không kịp ghi những dòng lưu bút

quên đi cái nhìn e ấp tuổi trăng tròn

quên đi cả cái gương cái lược

quên vành nón trắng hẹn hò…

Chúng tôi lên rừng

chịu đói, chịu khát

nói anh đừng cười

chúng tôi nhìn nhau, xanh như tàu lá

                                           mắt đứa nào đứa nấy hoẳm sâu

Gạo hết, sắn hết

Rau dớn hết

Rau tàu bay cạn kiệt

Củ môn dóc, chuối rừng cũng chẳng còn

đói triền miên, lạt muối triền miên

                                           khát khô cổ họng

Nước hố bom lọc làm nước uống

Nhìn con suối sáng nay gợn đỏ

Biết là chúng rải bột hóa chất đầu nguồn

nhưng cơn khát cồn cào gan ruột

                                           cứ uống tràn vô

sá gì nhan sắc thanh xuân

Tất cả nhìn nhau

Thương một thì con gái

Nhưng trái tim cứ đập theo lẽ phải

Lên rừng!

Lên rừng!

Cùng các anh đánh giặc

Đường ra trận không phải lúc nào

                                           cũng đẹp như câu hát

Nhưng câu hát lại cứu chúng tôi

 những phút xao lòng

từng đôi chim bay đi

về tương lai

gió mưa, buồn thương

mùa đông rồi sẽ qua…[1]

Việc gì Đảng giao

Quân đội giao

Chúng tôi nhận hết

Tất cả chung niềm khao khát

Giải phóng quê hương!

Đội hình

Làm sao có thể quên

Một sáng cuối mùa khô năm Một nghìn

Chín trăm Sáu Tám

Mồng Tám tháng Ba

Ngày của những người mẹ người em

Ngày yêu thương nâng niu nửa phần

                                           nhân loại

Trục thời gian quay những tọa độ vui buồn

Trái đất không bình yên,

Góc trời kia thanh bình,

Mặt đất nơi đây máu đổ

Cũng ngày này

Giữa chiến trường khu Năm miền Nam

                                            nước Việt

Cuộc đời chúng tôi đã bước sang trang

Những thiếu nữ chúng tôi không ngồi yên

 kết những cánh hoa hồng

Chúng tôi đang kết thành đội hình

                                           cầm súng

Cho những ngày Tám tháng Ba bình yên.

*

Cánh rừng già Phước Sơn sáng ấy bỗng

 trang nghiêm

Nghe nhịp đập trái tim thanh nữ

Những tia nắng sớm

Soi từng gương mặt măng tơ

Những làn da chưa kịp bắt nắng

Những đôi tay chưa một lần cầm súng

Những ánh mắt rực lên ý chí kiên cường

Những tấm lòng sục sôi căm giận

Quyết trả mối thù Vĩnh Trinh[2], Chợ Được[3],

                                           Mân Quang[4]

Nỗi đau tột cùng khi nhìn về Sơn Mỹ[5]

Những mẹ già em bé tiếng kêu thương

Không ai đến đây thay chúng tôi đánh giặc

Tất cả gái trai lần lượt lên đường.

Văng vẳng giọng nói ấm áp ân tình đâu đây

Các em ơi,

Các đồng chí!

Giờ thanh niên trai tráng thảy đều ra

                                            mặt trận

Chỉ còn các em đến với dải rừng này

Giờ mình là chủ

Từ đây các em sẽ ra đi

Băng rừng vượt lũ

Chuyển những chuyến hàng ra tận

                                           tiền phương

Chuyển cáng thương binh về hậu cứ

Vạt núi mở đường

Mang súng đạn kịp giờ ra mặt trận.

Những đứa em chúng ta chưa kịp lớn

Mà kẻ thù thì hung hãn cuồng điên

Cả quê hương trông đợi các em

Chỉ còn các em với dải rừng này

Chiến trường đang vào thời kỳ cam go

                                           căng thẳng nhất

Mặt trận ngày ngày dõi theo bước các em.

*

Sáng ấy

Phạm Thị Thao đứng trước Tiểu đoàn

Vóc dáng mảnh mai

Tuổi vừa mười chín

Trước hàng quân sáu trăm con người

Sáu trăm đôi vai, sáu trăm số phận

Cứng rắn mạnh mẽ trước hàng quân

Đêm về Thao đã khóc

Cha ơi tha lỗi cho con

Ngày ấy con mới mười bốn tuổi

Thương cha nhưng đành nói dối

Khai thêm tuổi đời

Để thành đứa con mười bảy

Tham gia vào đội giao liên

Rồi ngày ngày con lớn lên

Con biết cha thương con không nói

Mẹ mất, các anh chị con cũng lần lượt

                                           lên đường

Giờ con thành chị cả

Con biết cha từng ngày mong mỏi

Giúp cha thay mẹ chăm sóc đàn em

Quê mình địch vây ráp ngày đêm

Cha một mình quay sau quay trước.

Sáng ấy con lo dậy sớm

Quét sân dọn dẹp cửa nhà

Dĩa khoai luộc còn ấm nóng

Ấm chè xanh còn ủ trên bàn

Con đi, chưa kịp thưa cha.

 

Con biết đêm đêm cha khó ngủ

Con đi rồi, cha sớm tối vào ra

Đứa con gái cha vẫn dành nhiều

                                           yêu thương trông đợi

Giờ còn cha với đàn em nhỏ dại

 thiếu người chăm

Cha ơi thù nhà nợ nước

Đồng đội con không nhà nào không trắng

                                           khăn tang

Xin cha cho con lên đường

Cho ngày quê hương đoàn tụ.

on biết cha thương mà không giận

Giặc đến nhà con gái cũng xung phong

Đất nghĩa khí sinh người nghĩa khí

Con cháu Trần Cao Vân[6], Trần Quý Cáp[7],

                                           Thái Phiên[8]

Ông Ích Khiêm[9], Ông Ích Đường[10]

Không thể ngồi nhìn quân thù giày xéo

                                           quê hương.

Theo vannghedanang.org.vn


[1] Trích từ bài ca “Bài ca hy vọng” của nhạc sĩ Văn Ký. Câu chính xác trong bài hát là: “Gió mưa, buồn thương, mùa đông và mây mù sẽ tan”

[2] Thảm sát ở đập Vĩnh Trinh (Duy Xuyên, Quảng Nam) là vụ thảm sát của Việt Nam Cộng hòa đối với 38 chiến sĩ Việt Minh, trong đó có 1 phụ nữ mang thai. Để ghi nhớ tội ác này, sau ngày giải phóng (30 tháng 4 năm 1975), bên cạnh đập Vĩnh Trinh, một khu tưởng niệm những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh được xây dựng, gồm một hồ nước vuông, mỗi cạnh dài 18m, trên mặt hồ nổi lên 38 đóa hoa sen, tượng trưng cho 38 sinh mạng bị sát hại (trong số đó có một búp sen chưa nở, thể hiện một thai nhi bị hại). Bên cạnh hồ sen là tượng một chiến sĩ cao 10m, hai tay bị trói sau lưng, dáng đứng hiên ngang, đầu ngẩng cao. Bên cạnh là tấm bia khắc họ tên những người đã hy sinh trong cuộc thảm sát ngày 20-1-1955.

[3] Thảm sát Chợ Được (Thăng Bình, Quảng Nam) là cuộc thảm sát diễn ra từ ngày 4 tháng 9 – 6 tháng 9 năm 1954 do Quân đội VNCH; 43 người dân vô tội đã bị giết hại, 23 người khác bị thương.

[4] Vụ ném bom của 4 máy bay Mỹ ngày 16 tháng 3 năm 1965 làm 45 em học sinh trường tiểu học Mân Quang (phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) thiệt mạng.

[5] Khu chứng tích Sơn Mỹ (hay Khu chứng tích Mỹ Lai), nằm trên quốc lộ 24B thuộc địa phận thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi tưởng nhớ vụ thảm sát Sơn Mỹ (còn được biết đến là vụ thảm sát Mỹ Lai), thực hiện bởi một lực lượng của Quân đội Hoa Kỳ vào buổi sáng ngày 16 tháng 3 năm 1968, Tổng số 504 dân thường đã bị giết cho đến khi một nhóm lính Mỹ từ một máy bay trực thăng quân sự của Hoa Kỳ can thiệp.

[6] Trần Cao Vân sinh năm 1866 tại làng Tư Phú, tổng Đa Hòa (xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trước đây) là một quan lại của nhà Nguyễn được biết đến vì tinh thần yêu nước thời Pháp thuộc. Ông thuộc nhóm người cùng vua Duy Tân lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung Kỳ do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng, nhưng bị thất bại và bị người Pháp xử tử ngày 17 tháng 5 năm 1916.  

[7] Trần Quý Cáp (1870 – 1908), tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thai Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Lúc tuổi trẻ, ông đã nổi tiếng là một trong sáu học trò lỗi lạc của cụ Đốc học Mã sơn Trần Đình Phong tại trường Thanh Chiêm. Ông tham gia phong trào Duy Tân chống Pháp, sau đó bị bắt giam và vào năm 1908, ông chịu án chém ngang lưng. Hiện nay vẫn còn đền thờ ông ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

[8] Thái Phiên (1882 – 1916), quê tại làng Nghi An, xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là khối Nghi An, phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng), là một nhà hoạt động cách mạng, đã cùng với Trần Cao Vân và vua Duy Tân lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung Kỳ Việt Nam, do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng. Ông bị Pháp bắt và xử chém vào ngày 17 tháng 5 năm 1916.

[9] Ông Ích Khiêm sinh ngày 21 tháng 12 năm Mậu Tý (tức 25 tháng 1 năm 1829) tại Phong Lệ Bắc, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ (nay là phường Cẩm Lệ), thành phố Đà Nẵng. Dù nổi tiếng thanh liêm, tài thao lược quân sự vượt trội nhưng tính khí nóng nảy, thẳng như ruột ngựa làm không ít người ganh ghét. Khi giữ chức Binh bộ tả Thị lang ông bị một số kẻ xấu hãm hại và đày vào nhà lao Bình Thuận. Tại đây, một phần vì phẫn uất, phần vì cuộc sống tù đày khổ cực nên sức khỏe giảm sút, ông đã qua đời tại nhà ngục Bình Thuận vào tháng 7-1884.

[10] Ông Ích Đường (1890 – 1908), quê làng Phong Lệ, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc Phường Hoà Thọ, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng). Năm Mậu Thân (1908), hưởng ứng phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ, Ông Ích Đường chỉ huy nhân dân Hòa Vang đi chống sưu thuế, đồng thời đi vây bắt viên quan “sâu dân mọt nước” tên là Lãnh Điềm. Song việc không thành, vì chính quyền thực dân Pháp kịp đưa quân tới đàn áp. Bị truy nã, Ông Ích Đường tạm lánh nơi nhà Mạc Quý, người cùng học võ một thầy. Không ngờ Mạc Quý phản bội, mật báo với quân Pháp. Ông bị bắt và bị chém chết ngày 11 tháng 5 năm 1908 tại chợ Túy Loan (nay thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang) khi chợ đang đông để uy hiếp tinh thần dân chúng. Tại nơi hành hình, ông ung dung nói: “Dân nước Nam như cỏ cú, giết Đường này còn có trăm nghìn Đường khác. Bao giờ hết mía mới hết Đường!”. Cái chết oanh liệt của người thanh niên trẻ này đã gây xúc động mãnh liệt đối với nhiều người. Vì vậy, người dân đã quyên tiền lập miếu thờ “Cậu Đường” với hai câu đối điếu đề trước cửa miếu: “Tinh thần thiên bất tử; Nghĩa khí thế trường sanh” (Tinh thần còn mãi mãi; Nghĩa khí sống đời đời).