TƯỞNG NHỚ ANH LINH LIỆT SĨ: HỒI HƯỚNG TÂM LINH

Đăng lúc: 25-07-2025 10:11 Sáng - Đã xem: 365 lượt xem In bài viết

Nhân kỷ niệm 78 năm ngày Thương binh Liệt sĩ (27/07/1947 – 27/7/2025), chúng tôi trân trọng giới thiệu bài nói của TS. Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Ứng dụng (UIA), tại Hội nghị giao lưu thông tin về liệt sĩ ngày 06/7/1997 do cộng tác viên tại Đà Nẵng Phạm Công Hỷ chuyển tới.

Hôm nay, tại Ba Đình lịch sử, từ khắp mọi miền đất nước, chúng ta hội tụ về đây dự “Hội nghị giao lưu thông tin về các liệt sĩ”. Với lòng thành kính vô hạn, chúng ta cùng thắp nén tâm nhang, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong các cuộc chiến tranh vệ quốc.

Lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là bản hùng ca bi tráng, nơi đất mẹ đã phải trải qua bao cơn binh lửa. Giờ đây, đất nước thanh bình, bởi biết bao thế hệ người Việt đã không quản ngại hy sinh, để hồn tử sĩ quyện cùng hùng thiêng sông núi, tạo nên sức mạnh trường tồn cho dân tộc.

Nhìn lại xa xưa:

  • Những người lính đã hy sinh từ những thời An Dương Vương xây thành ốc.
  • Những người lính đã hy sinh trong những trận thủy chiến Bạch Đằng.
  • Những người lính đã hy sinh trong trận ải Chi Lăng.
  • Những người lính đã hy sinh trong những trận Chương Dương, Tây Kết, Hàm Tử.
  • Có những người lính bảo vệ quê hương từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, …
  • Có những người lính hy sinh vì nền Dân chủ Cộng hòa.

Là một đất nước không rộng, người không đông, nhưng dân tộc ta đã trường kỳ kháng chiến, lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều. Để chống lại kẻ thù hùng mạnh, chúng ta đã phải dùng đến trăm phương nghìn kế, đồng thời chấp nhận hàng ngàn vạn tình huống hy sinh.

  • Có những chiến sĩ đã hy sinh ngay từ những ngày cách mạng Việt Nam còn trứng nước.
  • Có những chiến sĩ hy sinh liệt oanh trong trận Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam, hay Chùa Non Nước, hay Đèo Giàng, hay Thành cổ Quảng Trị, hay Ba Tri, Bến Nghé, Đồng Nai, hay Cửa ngõ Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
  • Có những chiến sĩ đã hy sinh trong hầm sâu địch hậu.
  • Có những chiến sĩ đã hy sinh khi chở đò đưa bộ đội qua sông.
  • Có những chiến sĩ đã hy sinh khi gánh cơm cho đồng đội, “lá nếp, rau rừng trộn lẫn máu anh nuôi”.
  • Có những chiến sĩ quân y lấy thân mình che lửa đạn để cứu thương binh.
  • Có những chiến sĩ lái xe lấy thân mình làm mục tiêu dụ địch để giữ bình yên cho cả đoàn quân.
  • Có những chiến sĩ đã bất khuất hy sinh trong lao tù của bọn thực dân.
  • Có những chiến sĩ hoạt động phía trận tuyến quân thù, nghiến chặt răng để hy sinh thầm lặng.
  • Có những chiến sĩ an ninh ngã xuống để giữ bình yên cho từng góc phố, căn nhà.
  • Có những chiến sĩ cảm tử quân dự lễ truy điệu chính mình trước khi xuất trận.
  • Có những chiến sĩ hy sinh âm thầm vì nhiệm vụ đặc biệt mà đến nay vẫn còn chưa được truy phong.

Các chiến sĩ đã hy sinh giữa lúc còn đầu xanh tuổi trẻ, thậm chí có những người chưa có một mối tình riêng. Có biết bao người ra đi với cái tên cha mẹ đặt cho, nay mộ chí vẫn VÔ DANH và chấp nhận cái tên chung là ANH HÙNG LIỆT SĨ. Nhiều liệt sĩ đã được vào nghĩa trang yên nghỉ, nhưng cũng có biết bao nhiêu đồng đội còn gửi xương lại ở chốn sa trường.

Dẫu cho gia đình, thân nhân, đồng đội nhớ thương đã và đang trở lại chiến trường xưa nơi rừng sâu hay biên cương hải đảo để tìm lại hài cốt các anh, nhưng trời đất mênh mang, bóng chim tầm cá qua bao năm vật đổi sao dời, việc tìm thấy các anh trong ngày một ngày hai không phải dễ.

Hỡi chân linh các chiến sĩ! Các chị, các anh dù hy sinh ở bất cứ đâu, bất kể chiến trường nào, hôm nay hãy về đây hạnh hưởng niềm nhớ thương của triệu triệu đồng bào.

Thương ơi! “Máu chảy ruột mềm”. Thương biết mấy những mẹ già mắt mờ, chân hạc, ngày ngày tựa cửa đặt tấm hình con bên cánh võng, mẹ ru da diết nỗi niềm. Thương biết mấy những người vợ trẻ, đêm đêm gối chiếc hát mãi bài ca “Em vẫn đợi anh về”, nuôi con thờ chồng mà hóa đá Vọng Phu…

Ôi! Chẳng biết bút nào tả hết nỗi thương đau, các chị các anh đã chấp nhận hy sinh vì sự trường tồn Tổ quốc. Sự hy sinh ấy không gọi là chết được, tên anh chị mãi còn rạng rỡ với non sông. Dù kiếp sống ở trần gian ngắn ngủi, nhưng các anh, các chị đã dùng máu xương để viết lên những trang sử bằng vàng để nghìn đời sau vẫn ghi nhớ ơn sâu, để đình đài, nhà thờ, miếu mạo, lòng dân mãi mãi tôn thờ, bát tiết, tứ thời khói hương kính lễ.

Khi đất nước chìm trong bể sầu nô lệ, quê hương đầy bóng giặc, từng ngọn cỏ lá cây cũng uất hận dâng trào. Đành phải lấy máu đào xua đi những bóng thù hắt ám để đất trời lại bát ngát tươi xanh.

Khi kết thúc chiến tranh, truyền thống nhân nghĩa Việt Nam luôn bao dung cho kẻ thù bại trận, ông cha ta đã cấp thuyền bè, xe ngựa cho chúng hồi hương, chỉ một miêu cơm Thạch Sanh của tấm lòng nhân ái thiện lương cũng đủ no lòng cho đám bại quân 18 nước chư hầu. Ngày xưa, ông cha ta là thế, và ngày nay, dân tộc ta vẫn thế. Mở lượng từ bi, bởi thấm nhuận đạo lý “Bể oán mênh mông, quay lại thấy bờ”.

Hôm nay, tưởng nhớ về các chị các anh cùng ôn lại những tháng năm khốc liệt, không nhằm khêu mãi lên ngọn lửa hận thù mà để cảnh tỉnh cho bất cứ ai, đừng bao giờ khơi dậy mưu đồ xâm lược, đừng bao giờ tấu lên những giai điệu khủng khiếp của chiến tranh. Bởi “oan oan tương báo” rồi nghiệp quả nặng nề, bao giờ cũng giáng xuống đầu những kẻ nào nuôi mộng ảo xâm lăng.

Hôm nay, đất nước ta đã độc lập tự do. Các liệt sĩ hãy vui lòng yên nghỉ, xin các chị, các anh, hãy khoan dung cho cả kẻ thù, vì chúng đã bại trận, đã phải thọ nhận những gì chúng gây ra. Khốn khổ thay! Chúng cũng chỉ là những nạn nhân của lòng tham vô hạn. Cũng chỉ là tín đồ của thói cuồng si vô bờ. Và cũng xin các chị, các anh, tha cho những kẻ vô tình, họ không đáng trách mà chỉ đáng thương vì họ chẳng thể nào tin được khi xác thân của đồng đội mất đi nhưng hùng thiêng thì mãi mãi vẫn còn.

Các chị, các anh ơi, con người sinh ra từ tinh huyết mẹ cha và lớn lên nhờ dinh dưỡng từ cỏ cây hoa lá, nhờ nước của suối, của sông, và nhờ hít thở khí trời. Nói khác đi, thịt xương ta đã vay của đất, của trời. Sự hy sinh cho đất nước có khác chi lá rụng về cội. Chân linh của các chị, các anh đã kết thành khí thiêng sông núi, còn xác thân lại trở về với đất, với trời.

Thịt da các chị, các anh lại vun bồi cho những cánh hoa mơ nở trắng rừng Tây Bắc. Vun bồi cho rừng cọ, đồi chè ấm áp Trung du, cho cánh đồng quê nước bạc cơm vàng, cho miền Tây Nguyên ngút ngàn cà phê chín đỏ, cho rung rinh những trái dừa xiêm, làm dịu nắng trưa hè vùng Tam Quan Bình Định, cho vùng Tháp Mười ngào ngạt cả trời sen.

Để sự hy sinh của các chị các anh không uổng, những người đang sống phải xây dựng nước non này đàng hoàng, to đẹp hơn xưa. Công sức của những người đang sống, quyện với máu xương của các chị các anh để đất nước này mãi mãi tươi xanh. Cho những xóm thôn yên ả thanh bình, cho những phố phường phồn hoa, đô hội, cho các em thơ mặc quần áo mới, tung tăng trong tiếng trống khai trường, cho những đêm hè ngào ngạt hương cau. Có những cụ già ngồi bên đàn cháu, 1mái đầu bà đã bạc phơ, kể về chiến công của các chị các anh hào hùng như những trang cổ tích, chẳng khác chi chuyện diệt giặc Ân của Thánh Gióng năm nào.

Hôm nay hướng tới kỷ niệm lần thứ 50 ngày Thương binh, Liệt sĩ, người người thắp nén tâm hương, cùng hoa tươi hòa quyện với tấm lòng thơm thảo mời các chị các anh về đây vinh hưởng.

Các chị các anh khi sống đã hiếu trung, nay thác đi, trong tư thế anh hùng, nguyện các đấng thiêng liêng, nguyện hồn thiêng sông núi, tấn phong các liệt sĩ thành những PHÚC THẦN để trợ giúp cho những việc làm ích nước, lợi dân.

Trước đài hương dâng các chị, các anh, dám xin bày tỏ lòng thành cầu cho chân linh của các chị, các anh được siêu thăng, nơi cõi vĩnh hằng.