THANH NIÊN XUNG PHONG THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ THAM GIA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Đăng lúc: 27-03-2024 6:55 Chiều - Đã xem: 305 lượt xem In bài viết

Kính thưa các đồng chí đại biểu lãnh đạo các cơ quan Trung ương, đại biểu lãnh đạo của tỉnh Điện Biên; kính thưa các vị khách quý, thưa các đồng chí và đồng đội thân mến!

Trước hết, thay mặt Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Cựu TNXP Việt Nam xin nhiệt liệt chào mừng các đại biểu, khách quý đã đến tham dự. Xin chúc sức khỏe, hạnh phúc các quý vị, các đồng chí, đồng đội!

Xin chào mừng các Anh hùng, gia đìnhThương binh, Liệt sĩ; chào mừng các thế hệ cựu TNXP cả nước; các nhà tài trợ, ủng hộ cho “Chương trình Về Nguồn” và các bạn đoàn viên, thanh thiếu niên đã đến dự cuộc Gặp mặt Tri ân đồng bào, đồng chí và cựu TNXP do Trung ương Hội Cựu TNXP tổ chức tại thành phố Điện Biên Phủ tươi đẹp ngày hôm nay.

Toàn cảnh buổi gặp mặt.

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp đi vào thời kỳ quyết liệt, theo sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15/7/1950 Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam đã quyết định thành lập Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên, gồm 225 cán bộ đội viên, tại xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Nhiệm vụ trước mắt là phục vụ kháng chiến, sau này là dựng xây Chủ nghĩa xã hội.

 Tháng 9/1950, TNXP tham gia chiến dịch Biên giới[1], phục vụ bộ đội chủ lực đánh đồn Đông Khê thắng lợi. Tháng 10/1950, Trung ương Đoàn quyết định thành lập đơn vị thứ 2, lúc đầu Đội gồm 1.732 người chia làm 8 phân đội, ngày 22/12/1950 Đội lên đường phục vụ chiến dịch Trung du, làm nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, sửa đường… trên mặt trận Vĩnh Yên, Bình Liêu, Bến Tam (Quảng Ninh). Tháng 3/1951 Đội phát triển lên 3.000 người với 9 Liên đội, Đội chia làm 2 mũi phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám trên đường 18 Phả Lại – Uông Bí, Quảng Ninh; đảm bảo giao thông tuyến đường số 3 từ Thái Nguyên đi Bắc Kạn. Ngay từ ngày đầu thành lập Bác Hồ đã theo dõi từng bước trưởng thành của Lực lượng TNXP, Người chỉ rõ: “Kháng chiến càng tiến tới, công việc ngày càng nhiều, chúng ta cần củng cố và phát triển Đội TNXP để đảm bảo thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”.

 Ngày 28/3/1951, Liên phân đội 312 đang làm nhiệm vụ tại cầu Nà Cù (thôn Nà Tu, xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn) Bác Hồ đã ghé thăm và tặng Đội lá cờ “Thi đua Khá nhất” và Bác tặng 4 câu thơ: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên”. Tháng 5/1952, Đội tham gia chiến dịch Tây Bắc, tham gia làm đường ở Việt Bắc, đào đắp 106.000m3 đất đá, làm 50 cầu, vận chuyển 2.858 tấn gạo, đạn dược phục vụ chiến dịch. Tiếp đó, tham gia chiến dịch Thượng Lào, đảm bảo giao thông đèo Pa Hang và đường 41. Đến tháng 12/1953, phát triển lên 12 Liên phân đội với 3.000 đội viên, và mở rộng từ Khu V trở ra.

 Tháng 11/1953 đến tháng 6/1954 đã có 15.000 TNXP chủ yếu ở 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh tham gia các Đội TNXP phục vụ các chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch Thu – Đông 1953-1954. Tháng 12/1951 Tỉnh đoàn Hòa Bình thành lập Đội TNXP phục vụ chiến dịch Hòa Bình. Tháng 10/1953 thành lập Đội TNXP mang tên Cù Chính Lan, đảm bảo giao thông trên đường 41 phục vụ kháng chiến. Từ tháng 11/1952 các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình thành lập các Đội TNXP phục vụ chiến dịch và làm nhiệm vụ cấp bách tại địa phương.

Đồng chí Vũ Trọng Kim trình bày bài phát biểu.

Đầu năm 1953, các tỉnh Quảng Nam, Bình Định thành lập các Tổng đội TNXP với 2.000 người phục vụ chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Ngày 20/4/1954, liên Đoàn khu V thành lập Tổng đội TNXP liên khu V gồm 4.000 người (Tổng đội TNXP 204) phục vụ chiến dịch An Khê; cả Nam Bộ cũng tổ chức trên 1.000 Đội TNXP phục vụ bộ đội chiến đấu và công tác đột xuất ở địa phương, vận chuyển hàng chục vạn tấn gạo, đạn dược, bắc gần 3.000 chiếc cầu, chở hàng chục vạn bộ đội qua sông, kênh rạch phục vụ các chiến trường.

Sau thất bại liên tiếp ở Biên giới 1950, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào năm 1951, 1952, 1953, thực dân Pháp đã đề ra “Kế hoạch Nava[2]” hòng ngăn chặn bước tiến của ta. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta đang ở giai đoạn “Cầm cự” chuyển sang giai đoạn “Tổng phản công”. Ngày 25/5/1953, Bác Hồ giao cho Ban Thanh vận Trung ương và các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Vũ Kỳ, Tạ Quang Chiến xây dựng Đoàn TNXP Trung ương theo mô hình mới, được tổ chức chặt chẽ hơn, dài ngày hơn, là nơi rèn luyện, đào tạo cán bộ, là trường học thực tiễn cho cán bộ, đoàn viên thanh niên, huấn luyện chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày 26/3/1953, Đại đội 261 đơn vị đầu tiên của Đội TNXP kiểu mẫu được thành lập. Đội do ông Vũ Kỳ – Thư ký Bác Hồ – làm chỉ huy trưởng, nhiệm vụ ban đầu của Đội là đảm bảo giao thông, xây dựng kho tàng ở Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang và phục vụ cho An toàn khu (ATK).

 Đến tháng 1/1954, ba đội TNXP đã sáp nhập lại lấy tên là “Đoàn XP”. “Đoàn XP” có các Đội 34 và 40 đóng quân tại Sơn La, Lai Châu; Đội 36 làm nhiệm vụ phục vụ An toàn khu (ATK), nơi Trung ương Đảng và Chính phủ làm việc; Đội 38 làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông chiến lược (từ Thái Nguyên đến biên giới phía Bắc), tiếp nhận hàng viện trợ của các nước XHCN. Lúc này “Đoàn XP” có 10.000 người (không có nữ) hoạt động trên địa bàn rộng lớn từ Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III và Liên khu IV. Đến tháng 4/1954 do nhu cầu của mặt trận Điện Biên Phủ, 8.000 đội viên của Đoàn XP đã chuyển bổ sung cho quân đội. Đội 36 tại ATK được thành lập nhằm phối hợp với lực lượng quân đội, công an, công nhân xây dựng, làm các nhiệm vụ tuần tra, canh gác bảo vệ ATK; khôi phục, mở rộng tuyến đường bộ Tuyên Quang – Thái Nguyên và đường nội bộ trong ATK; đào hầm trú ẩn, nhà làm việc cho Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; xây dựng kho tàng, trung tâm thông tin liên lạc ATK.

Đội 34, 40 phục vụ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. “Đoàn XP” Trung ương được huy động 18.200 TNXP, biên chế thành 40 Đại đội tham gia chiến dịch lịch sử này. Tháng 11/1953, những đơn vị TNXP đầu tiên đã cùng bộ đội bí mật xuyên rừng lên Tây Bắc. Để đánh lạc hướng địch, một số đơn vị TNXP đã hành quân đi Việt Bắc, còn bộ phận của Đội 34 và 40 đã cùng bộ đội Công binh khai thông 80km đường Tuần Giáo – Điện Biên. Để phục vụ chiến dịch, ta mở đường 1B dài 140km nối thị xã Thái Nguyên với cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn. Đội TNXP 38 mở đường trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, bằng phương pháp hoàn thành từng đoạn, đường 1B đã được nối liền, đúng thời điểm chiến dịch bắt đầu. Đường lên Tây Bắc phải qua 2 phà Chợ Bờ và Suối Rút, cách nhau 12 km, địch đánh phá ác liệt, nhưng TNXP luôn dũng cảm bám cầu, bám đường, đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt. Đội 34, 40 được giao nhiệm vụ phá thác ghềnh trên sông Đà, sông Mã, sông Nậm Na để vận tải bằng thuyền trên sông thuận lợi. 40 Đại đội của 2 Đội 34, 40 với 14.000 người được bố trí cài răng lược, rải đều trên các tuyến đường dài 300 đến 400 km từ phà Tạ Khoa, Nghĩa Lộ qua Đèo Chẹn; từ Cò Nòi đến Pha Đin, Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ.

Tại trọng điểm Ngã ba Cò Nòi (Sơn La), điểm giao giữa Đường 41 (Thanh Hóa, Hòa Bình lên) và Đường 13 (Yên Bái, Phú Thọ, Việt Bắc) tiếp tế sang, là nơi địch đánh phá ác liệt nhất, có ngày Pháp đã huy động 69 máy bay, ném trên 300 quả bom, do đó Cò Nòi được mệnh danh là chảo lửa, túi bom, cửa tử. Đội 34 và 40 đã bám trụ ngoan cường bảo đảm giao thông thông suốt, dưới những cơn mưa bom của địch, có hàng trăm TNXP đã hy sinh. Tại đây xuất hiện những TNXP phá bom nổ chậm nổi tiếng, thông minh, gan dạ như Cao Xuân Thọ, Trần Văn Cam, Nguyễn Tiến Thụ, Trịnh Văn Huyền[3].

Đèo Pha Đin[4] là một trong những trọng điểm đánh phá của địch[5], một trong những tuyến huyết mạch quan trọng tiếp vận vũ khí đạn dược và lương thực cho chiến dịch Điện Biên Phủ của quân ta đi qua đèo này. Tháng 4/1954 có 10 xe chở hàng ra mặt trận bị địch đánh phá. Các đồng chí đã dũng cảm dập lửa, cứu hàng, cứu được cả đoàn xe an toàn. Hành động dũng cảm ấy đã được Bác Hồ tặng áo lụa và thưởng Huân chương. Kết thúc chiến dịch, 16.000 TNXP đã sửa chữa, mở rộng 3.300 km đường, phá hàng nghìn quả bom nổ chậm, đảm bảo giao thông 60 bến phà … Cùng với dân công, gùi thồ hàng trăm ngàn tấn gạo, lương thực, thực phẩm, thuốc men, nhu yếu phẩm phục vụ chiến dịch.

Kính thưa các đại biểu, các đồng chí, đồng đội và các bạn thanh niên!

Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày 8/5/1954, Bác Hồ gửi thư khen Bộ đội, TNXP, dân công và đồng bào Tây Bắc, trong đó có đoạn: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sỹ, dân công, TNXP và đồng bào các địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang”. Lực lượng TNXP đã được tặng 1 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 60 huân chương các loại cho các tập thể và cá nhân, 120 huy hiệu Bác Hồ. Ngày 31/3/1955 Đại hội Chiến sỹ thi đua lần thứ 2 Đoàn TNXP họp tại Hà Nội đã bầu được 20 chiến sỹ thi đua và cá nhân xuất sắc, được tặng 10 Huy hiệu của Bác, 15 Huân chương Kháng chiến các loại và nhiều danh hiệu cao quý khác. Năm 2010 Lực lượng TNXP tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ đã được Nhà nước phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Khi đánh giá về Lực lượng TNXP tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh tối cao Quân đội nhân dân Việt Nam đã cho rằng: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ nếu không có TNXP thì bộ đội sẽ gặp nhiều khó khăn, TNXP thực sự đem tinh thần xung phong của thanh niên trên chiến trường Điện Biên Phủ, cùng quân đội, dân công, đồng bào Tây Bắc, góp phần cống hiến xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc…”, “Tôi luôn coi TNXP như Bộ đội vì trong phẩm chất của TNXP có phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ”[6] .

          Hàng vạn TNXP đã cùng với các lực lượng dân công, Nhân dân Tây Bắc tham gia phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, chia lửa cùng bộ đội góp phần làm nên thắng lợi lịch sử. Khu tưởng niệm tâm linh Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi được xây dựng để tưởng nhớ, tri ân, tôn vinh công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ, lực lượng TNXP. Tỉnh Điện Biên cũng đã có Dự án xây dựng Khu Di tích lịch sử TNXP tại đèo Pha Đin để tri ân những TNXP đã hy sinh, góp phần giáo dục thế hệ trẻ.

Kính thưa các đồng chí đại biểu, thưa đồng đội TNXP, thưa các bạn!

Hôm nay tại mảnh đất thiêng liêng này, nơi ghi dấu lịch sử Chiến thắng Điện Biên vang dội “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; cách đây 70 năm, tướng De Castries giơ hai tay xin đầu hàng, cả đội quân viễn chinh Pháp sụp đổ, báo hiệu chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã thất bại hoàn toàn; hòa bình được lập lại trên đất nước ta bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ lịch sử. Chiến thắng này minh chứng sống động, đỉnh cao của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam, cổ vũ động viên cho những nước thuộc địa toàn thế giới đứng lên chiến đấu để giải phóng đất nước, giành lại độc lập dân tộc.

Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, hôm nay chúng ta tưởng nhớ công lao trời biển của Bác Hồ kính yêu, sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng của Nhà nước ta; ghi lòng tạc dạ công lao của biết bao Đồng bào, Bộ đội, Công an, Thanh niên xung phong và Dân công hỏa tuyến đã anh dũng cống hiến, hy sinh để hôm nay chúng ta có cuộc sống tươi đẹp, đất nước độc lập và tự do. “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu đã viết bài thơ này sống mãi với tháng năm: “Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ/Đèo Lũng Lô anh hò chị hát/ Dù bom đạn xương tan, thịt nát/ Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh”; “Những đồng chí chèn lưng kéo pháo/ Nát thân, nhắm mắt vẫn còn ôm…” Máu các anh chị đổ xuống nhuộm đỏ lá cờ vinh quang của Tổ quốc, đem lại sức sống mới cho non xanh, nước biếc, đem lại giấc ngủ yên lành cho trẻ thơ, “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng”.

“ Kháng chiến ba nghìn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay. Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước dân tộc anh hùng”.

Một lần nữa, cựu TNXP và thế hệ trẻ, chúng ta cùng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc các thế hệ tiền bối một lòng vì dân vì nước; chúng ta xin nguyện noi gương học tập, suốt đời phụng sự cho sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.

Kính chúc Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên vững bước trên con đường Đổi mới, cùng với quê hương Tây Bắc xây dựng vững mạnh, phồn vinh và hạnh phúc!

Xin trân trọng cảm ơn!

Vũ Trọng Kim


[1] Còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong 2, thực hiện từ ngày 16 tháng 9 đến 14 tháng 10 năm 1950 nhằm phá vòng vây mà quân viễn chinh Pháp bố trí nhằm cô lập các căn cứ địa Việt Bắc. Để từ đó khai thông biên giới Việt-Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc…

[2] Kế hoạch Navarre hay Kế hoạch 09 là một tài liệu hoạch định chiến lược quân sự do Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Henri Navarre (1898-1983) vạch ra năm 1953, nhằm xoay chuyển cục diện Chiến tranh Đông Dương. Mục tiêu của kế hoạch này là trong vòng 2 năm sẽ giúp thực dân Pháp “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

[3] Bốn đồng chí này được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 23/7/2014.

[4] Tên gọi đèo Pha Đin nguyên gốc xuất xứ từ tiếng Thái, Pha đin, trong đó Pha nghĩa là “Trời”, Đin là “Đất” hàm nghĩa nơi đây là chỗ nơi đất trời gặp nhau. Đèo dài khoảng 32 km, từ km số 360 đến km số 392 trên Quốc lộ 6, là nơi tiếp giáp theo hướng Đông-Tây giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên, nằm trong hệ thống cao nguyên Tả Phìn. Điểm cao nhất của đèo là 1.648 mét so với mực nước biển

[5] Năm 1954, suốt 48 ngày đêm ròng rã máy bay Pháp oanh tạc đường số 6, trong đó đèo Pha Đin và Ngã ba Cò Nòi.

[6] Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về Trường học lớn Thanh niên xung phong. NXB CTQGST-Hà Nội-2017 (trang 15)